Để lan tỏa khát vọng Việt, hãy thay đổi cách nghĩ của chính mình

14:37 |
Theo diễn giả, doanh nhân Trần Đăng Khoa để khát vọng đổi mới sáng tạo, khát vọng việt lan tỏa mỗi người hãy tự thay đổi cách nghĩ, cách tư duy của mình.

Như Chủ tịch Tập đoàn Cà phê Trung Nguyên từng nói sẽ không có thành công nếu không có sáng tạo. “Giải mã” sự thành công của những quốc gia phát triển để thấy được rằng, khát vọng sáng tạo đổi mới thực sự mang lại hiệu quả trước hết phải làm sao đưa khát vọng ấy lan tỏa trở thành câu chuyện hàng ngày của mỗi người Việt.

Thực tế, làm được điều đó sẽ không hề dễ dàng nhưng quan trọng hơn hết mỗi người phải có niềm tin, có khát vọng. Từng học tập làm việc thành công tại Singapore, ttrong đó có những tập đoàn lớn như là British Telecom, năm 2008 doanh nhân Trần Đăng Khoa trở về Việt Nam nuôi ước mơ khát vọng trở thành một doanh nhân, dịch giả, diễn giả.


Để lan tỏa khát vọng đổi mới sáng tạo, khát vọng việt mỗi người hãy tự thay đổi cách nghĩ, cách tư duy của mình (ảnh Đình Nguyên - Thanh Niên)

Những khát vọng đó được Trần Đăng Khoa đưa vào cuốn sách đầu tay của mình mang tên: “Sống và khát vọng”. Xuyên suốt cuốn sách là khát vọng sáng tạo, khát vọng vươn lên của một người Việt trẻ đầy khát khao…

Phóng viên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trò chuyện với doanh nhân, diễn giả Trần Đăng Khoa xung quanh câu chuyện làm sao để lan tỏa khát vọng Việt, làm sao để níu giữa nhân tài cho quốc gia…
- Theo ông, chúng ta đang có những điều kiện gì để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam trở thành một đất nước giàu mạnh?
Doanh nhân Trần Đăng Khoa: Tôi tin rằng khát vọng Việt Nam trở thành một đất nước giàu mạnh là một khát vọng to lớn và là một chặng đường rất dài với rất nhiều khó khăn thử thách và thay đổi. Tuy nhiên, đó chắc chắn không phải là điều viễn vông vì nếu là viễn vông thì không có nhiều có tâm, có tài và có tầm vẫn ngày ngày nỗ lực vì điều đó.

Làm được hay không làm được là chuyện của tương lai với qua nhiều biến số nên thật ra khó nói. Điều quan trọng là chúng tập trung vào hiện tại rằng: Liệu chúng ta có đang nỗ lực hết mình vì khát vọng đó hay không.


Doanh nhân Trần Đăng Khoa .

Điều kiện nếu liệt kê ra chúng ta đang có nhiều. Báo chí cũng đã viết nhiều nên tôi không muốn liệt kê lại nữa. Chỉ xin mượn lời của nguyên thủ tướng khai quốc Singapore Lý Quang Diệu: Việt Nam là một trong những dân tộc thông minh và năng động nhất Đông Nam Á, với nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú và một bờ biển vừa dài, vừa đẹp, lẽ ra Việt Nam đã phải giàu mạnh từ lâu lắm rồi.
- Vậy chất xúc tác để biến khát vọng Việt thành hiện thực 
Doanh nhân Trần Đăng Khoa: Dĩ nhiên cả 2 yếu tố khát vọng và đổi mới đều cực kỳ quan trọng. Nhưng tôi sẽ đặt yếu tố đổi mới lên trước.

Nếu mỗi người Việt chúng ta dám nhìn lại mình để không chỉ tự hào về bản thân, mà còn để nhìn ra những điểm cần thay đổi, thì chúng ta mới có cơ hội để lựa chọn cho mình một con đường tốt hơn, dẫn đến một kết quả tốt hơn, nhanh hơn và ít trả giá hơn.

Ở đây tôi muốn nói đến sự đổi mới tích cực. Nếu không có sự đổi mới tích cực này để có một con đường đúng, khát vọng chỉ khiến chúng ta đi nhanh hơn đến ngõ cụt chứ không dẫn chúng ta đến nơi mình mong muốn: Một đất nước hùng cường.

-
 Theo ông làm thế nào để khát vọng đổi mới sáng tạo đó lan tỏa?
Doanh nhân Trần Đăng Khoa: Chúng ta phải bắt đầu từ chính bản thân mình. Thường thì đa số mọi người thích chỉ ra người khác chưa tốt chỗ này, chưa tốt chỗ kia, nhưng ít ai chịu bắt đầu từ bản thân mình. Khi phần đông xã hội đều tự trang bị cho mình cách tư duy mới thì tất nhiên xã hội ấy sẽ thay đổi.

Nhưng một lần nữa, trước khi nghĩ đến cả xã hội, hãy tự hỏi mình sẽ thay đổi cách mình tư duy như thế nào?
- Một đất nước muốn phát triển phải có nhân tài, Việt Nam có nhiều nhân tài nhưng tại sao chúng ta vẫn chưa phát huy được hết khả năng của những nhân tài ấy?
Doanh nhân Trần Đăng Khoa: Chẳng ai có thể nghi ngờ việc một đất nước muốn phát triển cần phải có nhiều nhân tài. Nhưng có lẽ phải nói rõ thêm, họ phải là những nhân tài có TÂM với đất nước. Chứ còn nếu có tài không chưa đủ. Thậm chí, có tài mà không có tâm nhiều khi còn là hiểm họa đối với đất nước vì họ sẽ trở thành những kẻ chỉ biết vơ vét cho bản thân mình. Cho nên, trước khi nghĩ đến chuyện giúp đỡ nhân tài phát huy tài năng, chúng ta phải tạo ra một xã hội khuyến khích họ sống bằng cái tâm của mình.

Con người khá dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường. Nếu nhân tài mà không có bản lĩnh thì khi sống trong một xã hội xuống cấp về đạo đức, họ cũng dễ bị nản chí hoặc thậm chí tệ hơn là chỉ biết nghĩ cho bản thân mình. Có lẽ, để tận dụng được người tài, trước hết đất nước ta cần có một xã hội lành mạnh để tài năng phát triển theo hướng hữu ích cho cả xã hội lẫn cá nhân họ.
- Điều ông nói cũng chính là bài toán "giữ chân nhân tài" đang được cả xã hội quan tâm. Vậy, theo ông yếu tố quan trọng nhất để giữ được nhân tài là gì?
Doanh nhân Trần Đăng Khoa: Theo một cuộc khảo sát thì nhân tài thường cần 4 yếu tố: Thứ nhất là sự lãnh đạo anh minh, đáng tin cậy; Thứ hai là cơ hội phát triển sự nghiệp lẫn bản thân; Thứ ba được công nhận những đóng góp; Và cuối cùng có thu nhập tương ứng với giá trị của họ.

Nếu đất nước ta có được 4 yếu tố đó thì tôi tin rằng những nhân tài có tâm sẽ cống hiến được cho đất nước nhiều hơn rất nhiều.

- Xin cảm ơn ông!
 
Theo GD

Đến lúc tự vấn để cải cách

14:34 |
2014 cũng là thời điểm mà tinh thần tự vấn để cải cách cần phải đặt lên làm nguyên tắc hàng đầu, thông qua ba nguyên tắc chính về công bằng.

Quá trình hội nhập của Việt Nam có thể được xem như một cuộc đua nhiều chặng. Từ 1986 đến nay, cứ mỗi khi trải qua một giai đoạn, Việt Nam lại cho thấy một bước tiến mới trong việc hòa hợp các lợi ích của mình vào mạng lưới kinh tế, chiến lược và thang giá trị của thế giới.

Năm 2014 với một loạt các FTA đang đàm phán như RCEP, Việt Nam-EU và đặc biệt là TPP với nhiều khả năng được kí kết nhiều khả năng sẽ đánh dấu một bước ngoặt đáng chú ý, một "khoảnh khắc" đặc biệt.


Ảnh minh họa.

Những chặng đường đã qua
Quyết tâm đổi mới được thể hiện trong Đại hội Đảng lần VI diễn ra năm 1986 có thể được xem là viên gạch đầu tiên trên con đường hội nhập của Việt Nam. Mặc dù bản thân nó không phải là một bước hội nhập thật sự, công cuộc đổi mới đã tạo ra cho nước ta những tiền đề cần thiết cho một quá trình như vậy. Từ một vị trí tương đối biệt lập, Việt Nam cuối cùng đã giang tay nắm lấy cơ hội lớn để phát triển.

Năm 1995 là một khoảnh khắc rất đáng nhớ với Việt Nam và quá trình hội nhập của chúng ta nói riêng. Với việc vấn đề Campuchia được giải quyết ổn thỏa vào tháng 9/1989 và kết quả của Hiệp định Paris tháng 10/1991, quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - ASEAN đã có những bước tiến. Cuối cùng, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên chính thức của ASEAN vào 27/8/1995.

Tư cách thành viên của ASEAN đã giúp Việt Nam củng cố nỗ lực hợp tác và cải thiện quan hệ với các cường quốc trên thế giới. Các chuẩn tắc đồng thuận và không can thiệp của ASEAN rất phù hợp với quan điểm của Việt Nam về độc lập và chủ quyền.

Quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN đã đạt được một số thành tựu. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai bên đạt 3.490 tỉ USD năm 1992, chiếm tỷ trọng 24% tổng kim ngạch và tăng liên tục tới năm 1998, cho đến khi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 phát huy các ảnh hưởng của nó.

Hội nhập kinh tế với các quốc gia thành viên ASEAN đem lại những khó khăn nhất định cho Việt Nam, khi cán cân xuất nhập khẩu liên tục tăng theo hướng âm. Gia nhập ASEAN đã cho Việt Nam những bài học đầu tiên về được và mất của tiến trình hội nhập.

Năm 1995 cũng là thời điểm chúng ta chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ sau 20 năm gián đoạn sau chiến tranh. Mong muốn "là bạn" với mọi quốc gia trên thế giới của Việt Nam đã được chứng minh bằng hành động.

Những thành tựu từ bước tiến này là không thể bàn cãi. Hiệp định thương mại song phương giữa ta và Mỹ được kí kết sau đó vào năm 2000 đã đem lại nhiều lợi ích to lớn. Tổng kim ngạch thương mại hai nước tăng từ 1,5 tỷ USD lên đến hơn 20 tỉ USD trong năm 2011. Đáng chú ý, cán cân thương mại kể từ năm 2001 luôn nghiêng về phía Việt Nam.

Một bước tiến không thể không kể đến là việc Việt Nam chính thức gia nhập WTO năm 2007. Đây có thể xem là mốc đánh dấu việc Việt Nam lần đầu hội nhập sâu vào mạng lưới kinh tế toàn cầu.
"Tự vấn" để cải cách
Trong bài viết này, chúng ta tạm cho rằng năm 2014 sẽ là một khoảnh khắc hội nhập tiếp theo, nối dài cột mốc WTO 2007. Do đó, đây cũng là thời điểm mà tinh thần tự vấn để cải cách cần phải đặt lên làm nguyên tắc hàng đầu, thông qua ba nguyên tắc chính về công bằng.

Trước tiên và cụ thể nhất đó là sự công bằng giữa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các thành phần khác. Hiện nay, khu vực DNNN rõ ràng đang được hưởng quá nhiều đặc lợi so với khu vực tư nhân và vốn nước ngoài. Các DNNN lớn được hưởng thế độc quyền trong các lĩnh vực then chốt, thiết yếu (khoáng sản, nhiên liệu, cơ sở hạ tầng, giao thông, năng lượng...) và thế thống lĩnh trong bất cứ thị trường nào mà chúng tham gia.

DNNN còn được hưởng lợi từ góc độ pháp lý, chính sách (đất đai, vốn, tín dụng, hợp đồng mua sắm công), tạo nên một cuộc cạnh tranh bất bình đẳng giữa họ và khu vực tư nhân mà đáng nói nhất là dân doanh nội địa. Khu vực tư nhân vì thế bị DNNN lấn át về cả cơ hội lẫn nguồn lực khiến họ không thể phát triển hết tiềm năng vốn có.

Nếu sự mất cân đối về tiếp cận chính sách này còn được duy trì, nhóm chủ thể hoạt động kém hiệu quả sẽ càng phung phí các nguồn lực, trong khi nhóm chủ thể có năng lực lại bị bóp nghẹt tiềm năng phát triển.

Sự công bằng thứ hai phải đạt được có thể được gọi nôm na là sự công bằng giữa người tiêu dùng và nhà cung cấp, mà cụ thể là đối với các mặt hàng thiết yếu phần lớn thuộc về các doanh nghiệp độc quyền nhà nước. Theo Viện trưởng Viện Kinh tế VN Trần Đình Thiên, hiện tại giá năng lượng (xăng, dầu, điện, than) nằm trong bốn loại giá quan trọng mà không ai dám "đụng" đến. Câu chuyện thị trường hóa nhóm giá này đã bắt đầu từ lâu nhưng đến nay chưa có nhiều tiến triển.

Vấn đề là ở chỗ Việt Nam hiện nay thị trường hóa giá cả không được thực hiện dựa trên nền tảng của tự do hóa thị trường, tức là việc có được một thị trường cạnh tranh đúng nghĩa. Nói cách khác, theo đuổi cơ chế thị trường phải được tiến hành ở cả cơ chế giá lẫn cấu trúc thị trường.

Cuối cùng, đó là sự công bằng về thể chế, hay đơn giản hơn là sự công bằng trong khả năng tác động đến chính sách giữa các nhóm chủ thể trước một vấn đề nảy sinh. Chẳng hạn, nỗ lực thu hút FDI tại Việt Nam đôi khi đi quá xa, khiến cho các nhà đầu tư có nhiều khả năng trong tác động chính sách. Trong khi đó, khả năng tương tự của người dân còn hạn chế, khiến khi xảy ra sự cố tác động đến đời sống của họ, phần thua thiệt thường rơi vào người dân.

Gần đây, thông tin về khả năng xuất hiện của luật biểu tình, luật lập hội, luật trưng cầu dân ý, luật tiếp cận thông tin, luật bảo vệ dữ liệu cá nhân... là những dấu hiệu lạc quan đầu tiên của lộ trình thiết lập lại những nguyên tắc công bằng.
 
Theo Vietnamnet

Dũng cảm nhìn vào sự thật

14:29 |
Trong lớp trẻ ngày nay không có nhiều người theo đuổi các ngành KH&CN mà chỉ chạy theo sự hào nhoáng của tên gọi các ngành học, các trường đại học đua nhau mở các khóa kinh tế học, quản trị, marketing, nhưng sự thật là đa phần họ chỉ đào tạo ra những giao dịch viên ngân hàng, những nhân viên bàn giấy, những đốc công, và những người bán hàng.

Do ảnh hưởng từ những giá trị chuẩn mực của khoa học phương Tây, chúng ta vẫn thường tôn vinh những phẩm chất như sự nghiêm túc trong tư tưởng và đạo đức khoa học, hay tự do học thuật; chúng ta đấu tranh chống lại những luận điệu áp đặt mang tính phi khoa học, khuyến khích lối tư duy phê phán; hướng tới sự kết hợp hài hòa giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, giữa lý thuyết và thí nghiệm hay quan sát thực tế, giữa nghiên cứu và giảng dạy; chúng ta cũng mong muốn những lời phát biểu của Giáo sư Hồ Đắc Di tại rừng Việt Bắc những năm 1947 – 1949 sẽ trở thành nền tảng để xây dựng hệ thống đại học Việt Nam hiện đại. Đó là những lý tưởng tốt đẹp mà nhiều người trong chúng ta đã dành cả cuộc đời mình để theo đuổi.
Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật.

Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc VI, 1986
Tuy vậy, mối nguy hiểm ở đây là đôi khi chúng ta vì mải mê đắm chìm vào lý tưởng mà quên nhìn vào thực trạng của nền giáo dục đại học và khoa học của đất nước, vốn còn xa mới đạt tới những gì ông Hồ Đắc Di mong mỏi.

Khi bàn về giáo dục đại học ở Việt Nam, người ta thường nhắc đến ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn hóa Việt; họ cũng luôn nói rằng Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng còn sớm hơn cả trường đại học lâu đời nhất ở châu Âu, rằng người Việt luôn luôn đề cao vai trò của sự học. Nhưng sự thật, là cách đây gần một thế kỷ, hơn 90% dân số Việt Nam không biết đọc, và 30 năm chiến tranh đã gây nhiều tác động tiêu cực tới sự nghiệp giáo dục và đào tạo của cả một thế hệ.

Ngày nay, tình hình đã thay đổi: hơn 90% dân số biết đọc biết viết; các bậc cha mẹ đều tìm cách hướng con em mình theo học đại học, nơi được coi là cánh cửa dẫn tới tiền tài, địa vị xã hội, hạnh phúc, tức là tất cả những gì họ từng mong ước nhưng chưa có được trong những năm tháng gian truân vất vả khi xưa. Họ không quản ngại hy sinh để cho con theo học đại học, những gia đình khá giả hơn thậm chí còn dành dụm tiền để gửi con đi du học nước ngoài. Trong suy nghĩ của họ, họ đánh đồng hạnh phúc với tiền tài, văn hóa với sự giàu có; và sự thật là con em họ trưởng thành với tư tưởng coi trọng tiền bạc hơn kiến thức.
Lãng phí các nguồn lực
Sự thật là trong lớp trẻ ngày nay không có nhiều người theo đuổi các ngành KH&CN, một phần do các tổ chức học thuật trong nước vô cùng thụ động trong các hoạt động quảng bá cho khoa học và hỗ trợ sự phát triển của thế hệ trẻ. Trong khi đó, chạy theo sự hào nhoáng của tên gọi các ngành học, các trường đại học đua nhau mở các khóa kinh tế học, quản trị, marketing, nhưng sự thật là đa phần họ chỉ đào tạo ra những giao dịch viên ngân hàng, những nhân viên bàn giấy, những đốc công, và những người bán hàng. Tại các trường đại học ở Hà Nội mà tôi có dịp tham gia giảng dạy, tôi thấy rất nhiều sinh viên uổng phí bốn năm học chỉ để làm một việc là quên lãng dần những kiến thức phổ thông bởi các trường đại học không nghiêm túc kiểm soát chất lượng kiến thức của người học nhưng vẫn cấp bằng, điểm số được chấm một cách dễ dãi, năng lực và tài năng của sinh viên không được đánh giá một cách đúng mực. Vì vậy, những người có hiểu biết đều thiếu niềm tin vào chất lượng cũng như năng lực của các trường đại học trong nước tới nỗi họ tìm mọi cách gửi con cái mình đi du học.
Người thầy giáo nào càng đào tạo được nhiều học trò giỏi hơn mình thì càng hạnh phúc. – Giảng dạy và nghiên cứu là hai anh em sinh đôi, và nhiều khi giảng đường trang nghiêm chỉ là sảnh chờ trước khi bước vào phòng thí nghiệm. – Trường đại học không chỉ là nơi giảng dạy khoa học đã hình thành, mà còn là nơi đang hình thành khoa học. – Nghiên cứu là làm việc theo nhóm. Nó đòi hỏi sự chăm chỉ và nhẫn nại. Nó bao gồm những kỹ năng, đặc biệt đối với những người trẻ tuổi, luôn không ngừng tìm kiếm phát minh để có thể nắm bắt cơ hội. Cùng với công việc, trí tưởng tượng và  phương pháp, cơ hội và sự quan tâm sẽ đến trong tầm tay. – Nhà khoa học phải có một phông văn hóa rộng để không chỉ như những người thợ thủ công lành nghề được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp. Đào tạo các nhà khoa học phải chú trọng phát triển cả về trí tuệ và đạo đức, bao gồm cả khoa học và nghệ thuật. – Tinh thần học thuật là một đặc trưng của đào tạo giáo dục bậc cao so với bậc trung học và trung học chuyên nghiệp; đó là sự thỏa hiệp giữa sinh viên và giảng viên mà không có chỗ cho việc lạm dụng quyền hạn. Chỉ khi đó, thông qua mối quan hệ không áp đặt, năng lực phán xét mới có thể nở rộ hoàn toàn tự do-đó là bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa trí tuệ nhân loại, một yếu tố vô cùng quan trọng đối với khoa học. – Khi học thì phải nghi ngờ và khi làm thì phải có niềm tin. – Có thể điều khiển được các nhà khoa học, nhưng không thể điều khiển được Khoa học. – Thật quý giá cho nhà khoa học nào có một công việc kết hợp được cả Khoa học và Lương tâm. Có tài là chưa đủ; mà phải có đạo đức trong sáng.  – Trường đại học phải tự hào vì đã quyết tâm gìn giữ di sản trí tuệ của những người đang đấu tranh vì tự do.

Người thầy giáo nào càng đào tạo được nhiều học trò giỏi hơn mình thì càng hạnh phúc. – Giảng dạy và nghiên cứu là hai anh em sinh đôi, và nhiều khi giảng đường trang nghiêm chỉ là sảnh chờ trước khi bước vào phòng thí nghiệm. – Trường đại học không chỉ là nơi giảng dạy khoa học đã hình thành, mà còn là nơi đang hình thành khoa học. – Nghiên cứu là làm việc theo nhóm. Nó đòi hỏi sự chăm chỉ và nhẫn nại. Nó bao gồm những kỹ năng, đặc biệt đối với những người trẻ tuổi, luôn không ngừng tìm kiếm phát minh để có thể nắm bắt cơ hội. Cùng với công việc, trí tưởng tượng và  phương pháp, cơ hội và sự quan tâm sẽ đến trong tầm tay. – Nhà khoa học phải có một phông văn hóa rộng để không chỉ như những người thợ thủ công lành nghề được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp. Đào tạo các nhà khoa học phải chú trọng phát triển cả về trí tuệ và đạo đức, bao gồm cả khoa học và nghệ thuật. – Tinh thần học thuật là một đặc trưng của đào tạo giáo dục bậc cao so với bậc trung học và trung học chuyên nghiệp; đó là sự thỏa hiệp giữa sinh viên và giảng viên mà không có chỗ cho việc lạm dụng quyền hạn. Chỉ khi đó, thông qua mối quan hệ không áp đặt, năng lực phán xét mới có thể nở rộ hoàn toàn tự do-đó là bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa trí tuệ nhân loại, một yếu tố vô cùng quan trọng đối với khoa học. – Khi học thì phải nghi ngờ và khi làm thì phải có niềm tin. – Có thể điều khiển được các nhà khoa học, nhưng không thể điều khiển được Khoa học. – Thật quý giá cho nhà khoa học nào có một công việc kết hợp được cả Khoa học và Lương tâm. Có tài là chưa đủ; mà phải có đạo đức trong sáng.  – Trường đại học phải tự hào vì đã quyết tâm gìn giữ di sản trí tuệ của những người đang đấu tranh vì tự do.

GS Hồ Đắc Di
Tôi cũng đã thấy nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp lại khăn gói lên đường tầm sư học đạo xứ người, chắc mẩm rằng cứ đi du học là tự khắc sẽ giỏi, nhưng khi đối diện với thực tế đã vỡ mộng ra sao. Những người thành công thì hoặc là định cư hẳn ở nước ngoài, hoặc là về nước để rồi không tìm thấy cơ hội phát triển sự nghiệp xứng đáng với những gì họ đã bỏ ra để học hỏi những kỹ năng mới, kiến thức mới. Sự thật, là tình trạng chảy máu chất xám đang diễn ra gay gắt. Tất cả những công sức đầu tư của các gia đình và cả Nhà nước gửi người đi đào tạo ở nước ngoài rốt cuộc trở thành lãng phí vì chúng ta không khai thác sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực đó.

Một trong những ví dụ điển hình là trong hơn một thập kỷ nay, người ta đã bàn bạc nhiều về chương trình phát triển điện hạt nhân của Việt Nam, nhưng rút cục trên cả nước vẫn chưa có một trung tâm đào tạo các nhà khoa học, các kỹ sư giúp vận hành nhà máy điện hạt nhân tương lai; nơi có thể gửi người đi tập huấn rồi trở về truyền đạt lại kiến thức cho sinh viên, hoặc mời chuyên gia nước ngoài tới giảng những khóa ngắn hạn theo từng chủ đề cụ thể; nơi có thể tận dụng các kinh nghiệm nghiên cứu tích lũy được trong nhiều năm qua tại lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Trong khi đó, chúng ta vẫn cứ tiếp tục gửi người đi du học nước ngoài mà không hề giám sát tiến độ học tập của họ, và cũng chẳng hề chuẩn bị để có thể tiếp nhận và sử dụng hiệu quả họ sau khi tốt nghiệp về nước.

Kết quả là, tới nay chúng ta vẫn hoàn toàn thiếu sự chuẩn bị nguồn nhân lực cho dự án điện hạt nhân, và đây là lí do khiến một số chuyên gia am hiểu về lĩnh vực này có ý kiến cho rằng Việt Nam nên từ bỏ tham vọng xây dựng nhà máy điện hạt nhân trong tương lai trước mắt. Đây cũng là một sự thật đáng tiếc.

Cách đây mấy năm, Quỹ Phát triển Khoa học & Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) ra đời. Đó là một sáng kiến rất đáng khen, nhằm tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, giúp đánh giá các đề tài nghiên cứu một cách khách quan hơn. Nhưng sự thật, là số tiền tài trợ cho các dự án mới kể từ ngày 01/01/2013 cho tới hơn một năm sau mới được Bộ Tài chính duyệt cho giải ngân. Điều này gây ra nhiều xáo trộn nghiêm trọng, ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện các đề tài. Mặt khác, là quỹ NAFOSTED đến nay vẫn chưa có động thái nỗ lực nào để khuyến khích tinh thần làm việc nhóm và tự do sáng tạo cá nhân. Trái lại, họ yêu cầu mỗi thuyết minh đề tài phải giải trình thật chi tiết nội dung đóng góp của từng cá nhân thay vì cho phép chủ nhiệm đề tài tự quản lý một cách linh hoạt công việc của các thành viên tham gia thực hiện đề tài.

Người ta vẫn thường kêu ca rằng sở dĩ nền nghiên cứu của Việt Nam khó cất cánh được là vì thiếu thiết bị nghiên cứu. Nhưng sự thật như tôi được biết có những thiết bị quan trọng do các cơ quan nghiên cứu mua, hoặc do nước ngoài tài trợ, nhưng rồi bị đắp chiếu vì trong nước không có người đủ năng lực khai thác, sử dụng.

Một Việt kiều từng tặng cho Việt Nam một giao thoa kế vô tuyến, để rồi nó bị chôn vùi trong tủ để đồ ở một trường đại học tại Hà Nội trong suốt 15 năm. Sau khi được chúng tôi phát hiện và mang về, nó đã được một sinh viên của tôi sử dụng phục vụ nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ. Nhưng rồi một vị công chức bàn giấy trong trường phát hiện ra rằng danh sách hàng tồn kho của anh ta thiếu mất thiết bị ấy nên đã gọi chúng tôi đòi lại. Vậy là nó lại quay về nằm im trong tủ và nhiều khả năng sẽ ở lại đó vĩnh viễn.

Khoa vật lý hạt nhân của một trường đại học từng bỏ ra vài triệu đô la để mua một chiếc máy gia tốc mà họ cũng không biết phải dùng để làm gì. Thực ra, loại máy gia tốc này chỉ hữu ích cho giới vật lý hạt nhân khoảng 60 năm về trước, còn hiện nay nó chỉ có thể được sử dụng trong lĩnh vực nghiên cứu vật liệu mà thôi. Tuy vậy, người ta vẫn quyết định mua, nhưng lại không cho các nhà khoa học vật liệu cơ hội sử dụng nó.

Sự thật là tôi đã thấy có những cá nhân xin mua những thiết bị lớn đắt tiền, giá cả có khi lên tới hàng trăm triệu đô la hoặc hơn, mà không hề tham khảo ý kiến của đồng nghiệp và cũng không lưu tâm tới thực tế là trong nước không có người đủ kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để vận hành và bảo dưỡng thiết bị đó một cách hợp lý. Tôi còn được biết rằng bạn bè quốc tế đã tặng cho Việt Nam những công cụ máy móc cơ khí hiện đại nhưng rồi tất cả đều bị đắp chiếu trong xưởng tới hàng thập kỷ đơn giản vì không có người vận hành.
Bằng cấp và đạo đức 
Những người sở hữu bằng đại học lẽ ra phải được coi là người có năng lực, và tấm bằng đại học lẽ ra phải là bàn đạp phát triển cho giới trẻ hòa nhập vào giới tinh hoa của nước nhà, là nền tảng xây dựng tương lai đất nước. Sự thật, là tiền lương công nhân viên chức không đủ để họ nuôi gia đình, nên họ phải bươn chải làm ngoài để sinh tồn. Trong khi đó, không có sự khác biệt về tiền lương nào giữa những người làm việc chăm chỉ và những người thậm chí còn không thèm bước chân vào cửa cơ quan, ngoại trừ những dịp như dịp lễ tết để thu phong bì. Sự thật thì chiếc bằng đó chẳng mấy hữu dụng, và cách tốt nhất để kiếm được một vị trí như ý nhiều khi là đưa những chiếc phong bì cộm tiền cho những vị thủ trưởng, hoặc có người thân làm to. Đó là những câu chuyện đáng buồn mà tôi đã từng chứng kiến.

Mấy năm trước, ngài Phó Thủ tướng chia sẻ tham vọng được thấy 20.000 tiến sĩ tốt nghiệp vào năm 2020. Sự thật, là ba cựu nghiên cứu sinh của tôi từng theo học tiến sĩ trong dự án hợp tác giữa Việt Nam và các trường đại học danh tiếng của Pháp, nhưng cho tới giờ họ vẫn chưa nhận được bằng của phía Việt Nam cấp, bất chấp sự tồn tại của cái thỏa thuận chính thức giữa hai nước rằng sau khi nghiên cứu sinh bảo vệ khóa luận, trường đại học của cả hai bên đều phải cấp bằng. Một sinh viên của tôi đang làm tiến sĩ tại Việt Nam đã viết xong luận án từ cách đây vài tháng, nhưng giờ lại phải vượt qua một chặng đường dài gồm một loạt những thủ tục hành chính đặt ra chỉ để đánh đố nhau: tám buổi thuyết trình; một bản nhận xét của hai thầy phản biện - một trong hai người đó đã đưa ra những nhận xét lộ rõ sự yếu kém năng lực chuyên môn của mình; thu thập đủ 15 đánh giá tốt từ 50 tiến sĩ tại Việt Nam – thực tế là phần lớn những người này không hiểu gì về luận văn đó dù đã được gửi bản thuyết minh tóm tắt.
Chúng ta phải có can đảm để đối diện với sự thật. Vấn đề không phải là đổ lỗi cho ai đó, bởi có quá nhiều tác nhân lịch sử dẫn tới tình trạng như hiện nay. Người duy nhất có lỗi ở đây là người chối bỏ sự thật.
Hiện nay, các nghiên cứu sinh cứ ba tháng một lần phải gửi báo cáo cho phòng phụ trách nghiên cứu sinh của trường để báo cáo tiến độ, như thể người ta cho rằng vị quản lý nghiên cứu sinh là kẻ bất tài, thiếu trách nhiệm, hay gian dối, không đáng tin cậy để thực hiện công việc đó. Chúng ta sẽ dễ nghĩ rằng cách giám sát kỹ càng như vậy có thể hạn chế những gian lận trong việc cấp bằng, nhưng trên thực tế, chúng ta lại thường xuyên phải nghe đến những vụ mua bán bằng cấp hay thuê người viết luận văn, hay khá khẩm hơn là được cắt dán xào xáo bởi những người chuyên sống bằng nghề này.  

Người ta ưa dùng những danh xưng nghe thật “kêu”. Đi dọc hành lang các viện nghiên cứu hay các trường đại học, ta sẽ bắt gặp không ít những cánh cửa gắn biển giám đốc phòng này, giám đốc ban nọ, nhưng sự thật, là phòng này ban nọ mà vị giám đốc đó lãnh đạo thường chỉ gồm có một người – tức là chính vị giám đốc đó – còn văn phòng của ông ta thì hầu như lúc nào đóng cửa bỏ không. Tôi có những sinh viên làm khóa luận tốt nghiệp của một khoa được coi là chất lượng cao tại một trường đại học Hà Nội, có tên gọi Năng lượng cao và Vũ trụ học. Nhưng thực tế là những sinh viên của khoa này chẳng hề biết thuyết tương đối hay vũ trụ học là gì, thậm chí thiếu cả những kiến thức rất sơ đẳng về vật lý.

Cách đây mấy năm dư luận xôn xao về một vụ đạo văn. Nguyên là một nhóm các nhà vật lý, trong đó có hai giáo sư, một người giữ chức vụ cao, từng đại diện Việt Nam trong một sự kiện quốc tế, đã “xào nấu” một công trình nghiên cứu bằng cách cắt dán lại từ những tài liệu đã được công bố, sau đó thêm thắt vào một vài câu vô nghĩa rồi gửi tới nhiều tạp chí quốc tế khác nhau. Một số báo đã nhận đăng – điều này phản ánh chất lượng thẩm định của các báo đó tệ hại như thế nào – nhưng có một số báo đã phát hiện ra được sự gian dối. Nhưng sự thật là đến nay các nhà quản lý của chúng ta vẫn chưa có biện pháp nào ngăn cản, hạn chế những sự việc như vậy tái diễn.
Đối diện với sự thật như thế nào?
Nền giáo dục sẽ chẳng đi tới đâu khi mà cách tốt nhất để người ta kiếm được một công việc tốt là có tiền, mối quan hệ, hay có người thân làm quan chức. Tham nhũng là kẻ thù tồi tệ nhất của giáo dục.
Sự thật, là chúng ta phải xây dựng lại từ đầu một hệ thống trường đại học Việt Nam đáp ứng nhu cầu của tương lai, và việc che giấu những khuyết điểm như chúng ta vẫn làm trong suốt những thập kỷ qua sẽ không đi tới đâu cả. Chúng ta phải có can đảm để đối diện với sự thật. Vấn đề không phải là đổ lỗi cho ai đó, bởi có quá nhiều tác nhân lịch sử dẫn tới tình trạng như hiện nay. Người duy nhất có lỗi ở đây là người chối bỏ sự thật.

Sự thật là việc xây dựng một hệ thống trường đại học như vậy sẽ phải trải qua nhiều thế hệ. 2/3 người Việt Nam sinh ra sau thời kỳ Đổi mới. Chúng ta cần phải suy nghĩ lại xem mình cần – và có thể - đem lại cho họ loại hình giáo dục, đào tạo nào. Chúng ta phải ngừng ngay việc so sánh các trường đại học Việt Nam với các trường đại học trên thế giới, bởi đây không chỉ là một việc làm vô nghĩa mà, tai hại hơn, còn gây ra những ngộ nhận về đường hướng.

Chúng ta phải đặt ra các ưu tiên, và điều chỉnh cân đối tỉ lệ các trường hướng nghiệp, trường chuyên nghiệp,trường kinh doanh, và trường đại học. Chúng ta phải tìm hiểu rõ hơn đất nước mình cần bao nhiêu bác sĩ, bao nhiêu kỹ sư, hay giáo viên, những dự đoán sát thực tế hơn về số lượng nhà kinh tế, nhà quản lý, và doanh nhân cần thiết. Chúng ta cũng cần biết rõ về tỉ trọng nhân lực giữa hai khu vực nhà nước và tư nhân.

Ngoài những vấn đề ưu tiên nói trên, chúng ta cũng cần phải ưu tiên khôi phục lại đạo đức và sự trung thực trong các hoạt động. Nền giáo dục sẽ chẳng đi tới đâu khi mà cách tốt nhất để người ta kiếm được một công việc tốt là có tiền, mối quan hệ, hay có người thân làm quan chức. Tham nhũng là kẻ thù tồi tệ nhất của giáo dục.
Tôi vừa đọc xong cuốn hồi ký của bà Nguyễn Thị Bình (Gia đình, Bạn bè, và Đất nước), trong đó có một chương thú vị nói về những vấn đề xảy ra trên dưới 30 năm trước mà bà phải đối mặt trong giai đoạn 10 năm bà làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Đó là: hợp nhất hai nền giáo dục Nam Bắc, xóa nạn mù chữ trong công nhân, xây trường mới (ở cả các vùng sâu vùng xa) và mở trường sư phạm để đào tạo giáo viên, duy trì hoạt động giáo dục trong giai đoạn khó khăn những năm 1979 – 1980, trồng cây vải ở Hải Dương giúp cải thiện đồng lương giáo viên, hướng dẫn thực hiện các hoạt động như “Phủ xanh đất trống đồi núi trọc”, “Góp giấy làm kế hoạch nhỏ”, “Thu gom chai lọ”, hay “Góp lông gà lông vịt”. Qua cuốn hồi ký, có thể thấy  rằng vào cuối thập niên 1980, các trường đại học hiện đại Việt Nam đều được xây dựng lên từ rất nhiều khó khăn, thiếu thốn.

Ngày nay, chúng ta cũng cần đối diện với một sự thật, rằng ở nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như hai lĩnh vực mà tôi quen biết là vật lý hạt nhân và vật lý học thiên văn, thì mọi việc hầu như phải bắt đầu từ con số 0.
Vậy đến bao giờ chúng ta mới giải quyết được những vấn đề này, và tới khi nào trường đại học mà Giáo sư Hồ Đắc Di từng mơ ước mới trở thành hiện thực?

Dĩ nhiên, chưa thể mong sẽ trông thấy nó trong tương lai gần. Chúng ta phải xây dựng nó từ đầu nên quá trình hoàn thiện có thể phải kéo dài hàng nhiều thế hệ chứ không chỉ vài năm. Tuy nhiên, tôi cũng muốn nói rằng ngay từ bây giờ chúng ta vẫn có thể gieo trồng hạt giống của khoa học cơ bản với những nghiên cứu khai phá ở tận biên giới tri thức khoa học của nhân loại. Tất nhiên những nghiên cứu như vậy chỉ có thể thực hiện ở quy mô khiêm tốn, và phải ưu tiên chất lượng hơn số lượng. Muốn vậy ta phải làm gì?

Trước tiên, cần chọn ra một số lĩnh vực mà Việt Nam sẵn sàng – và có đủ khả năng – hậu thuẫn. Khi lựa chọn cần lưu ý đến tiềm năng phát triển một số lĩnh vực vẫn còn để ngỏ nhiều cơ hội nghiên cứu và chúng ta dễ đạt được thành tựu hơn trong một vài thập kỷ tới.

Cũng cần phải cân nhắc tới vấn đề tài chính, không nên bỏ tiền xây dựng, chế tạo những thiết bị, cơ sở vật chất tốn kém trong khi có thể tận dụng những thiết bị ở nước ngoài với mức chi phí phải chăng; trước khi đầu tư xây dựng thiết bị khoa học mới trong nước, cần bàn bạc với nhiều bên, kể cả các chuyên gia nước ngoài. Cần phải tìm hiểu cụ thể về tài năng và năng lực của những người làm nghiên cứu trong nước; một ngành nghiên cứu nào đó chỉ có thể được tài trợ một cách hữu hiệu khi đã có sẵn một đội ngũ nghiên cứu năng động trong nước, đã từng chứng tỏ khả năng hoạt động hiệu quả của mình trong lĩnh vực đó. Và, mặc dù đây không phải là ưu tiên, nhưng cũng cần quan tâm tới mối liên hệ giữa lĩnh vực đó với các nghiên cứu ứng dụng và các địa chỉ ứng dụng khác. Tuy nhiên, trước khi đầu tư vào trang thiết bị, chúng ta cần đầu tư vào con người, chúng ta cần đầu tư vào trí tuệ, chúng ta phải xây dựng được những đội ngũ có đủ năng lực để sử dụng, vận hành, và bảo dưỡng những trang thiết bị đó.

Người ta vẫn thường kêu ca rằng sở dĩ nền nghiên cứu của Việt Nam khó cất cánh được là vì thiếu thiết bị nghiên cứu. Nhưng sự thật như tôi được biết có những thiết bị quan trọng do các cơ quan nghiên cứu mua, hoặc do nước ngoài tài trợ, nhưng rồi bị đắp chiếu vì trong nước không có người đủ năng lực khai thác, sử dụng.

Một vấn đề khác cần quan tâm là việc trọng đãi nhân tài. Ở đây, chúng ta cũng cần phải dũng cảm đối diện với sự thật. Sự thật là ở Việt Nam nhiều giảng viên đại học chỉ biết đọc bài giảng sẵn có trong sách giáo khoa và không đủ năng lực thực hiện công việc nghiên cứu. Vì vậy chúng ta phải khen thưởng cho những người có thể tự thiết kế chương trình, tự soạn bài giảng, và có tham gia nghiên cứu; những người này cần có những mức lương xứng đáng để họ có thể toàn tâm toàn ý tập trung vào hoạt động giảng dạy và nghiên cứu, đồng thời được xã hội tôn trọng. Hiện nay, thu nhập của một nhà nghiên cứu trẻ còn thấp hơn rất nhiều so với thu nhập của một nhân viên bàn giấy tại ngân hàng hay doanh nghiệp tư nhân, khiến họ không được gia đình, bạn bè coi trọng và buộc phải làm thêm, dạy thêm quá sức để có thể sinh tồn. Với thực tế như vậy, chúng ta sẽ không bao giờ có thể xây dựng được ngôi trường đại học như mong muốn. 

Tuy nhiên, việc cần làm gấp hiện nay là trang bị cho giới trẻ những gì là cần thiết để họ có đủ dũng cảm đối diện với sự thật, nhìn thẳng vào sự thật, hình thành lối tư duy phê phán, và theo đó mà hành động. Tức là, chúng ta cần đào tạo được những người trưởng thành có trách nhiệm.
 
Theo Tia Sáng

Xếp hàng 44 tiếng đồng hồ để mua iPhone 6 chuộc lỗi với vợ

14:27 |
Một người đàn ông ở Anh đã đứng liên tục gần 2 ngày chỉ để mua được phiên bản mới nhất của Apple, mong làm hòa với vợ.
Ông Darius Wlodarski bắt đầu xếp hàng để mua chiếc iPhone 6 plus vào thứ Tư vừa qua ở Cabot Circus, Bristol (Anh).
Thực chất, đám đông chỉ bắt đầu xếp hàng vào hôm qua, thứ Năm nhưng ông Darius kiên quyết tới sớm hơn 1 ngày để giành được vị trí tốt. Ông nói mình “phải mua bằng được chiếc điện thoại mang về tặng vợ”.

Darius Wlodarski xếp hàng gần hai ngày để mua iPhone 6 tặng vợ1
“Sau hai mươi năm chung sống, cô ấy đã ly thân với tôi một tháng nay. Tôi biết mọi lỗi lầm là do mình gây ra. Tôi không phải một người chồng tốt, cũng không phải một người cha tốt. Tôi muốn gửi lời xin lỗi chân thành đến vợ và con gái. Nhưng tôi hy vọng với món quà này, vợ tôi sẽ hiểu được tấm lòng và thành ý của tôi dành cho cô ấy mà chịu làm hòa”, ông Darius chia sẻ.
1
Ông hi vọng món quà này sẽ làm vợ nguôi giận
Không biết sau khi nhận được món quà do chồng cực khổ xếp hàng liên tục 44 giờ đồng hồ, vợ của ông Darius sẽ nghĩ sao. Nhưng mọi người đều hy vọng nỗ lực của ông trong việc hàn gắn hạnh phúc gia đình sẽ mang lại kết quả tốt đẹp nhất.

Chúng ta nghèo nhưng phí phạm

14:26 |
Bài viết của GS. Pierre Darriulat đã chỉ ra những sự thật nhức nhối mà chúng ta cần dũng cảm nhìn nhận, trong đó đặc biệt đáng quan tâm là vấn đề lãng phí chất xám và các nguồn lực của xã hội.

Lãng phí chất xám là vấn đề thực sự nghiêm trọng và đang diễn ra ở mọi nơi dưới rất nhiều hình thức, trong đó tập trung cao ở các cơ quan nhà nước. Đây là nơi người có tài năng không được sử dụng, thậm chí có thể bị bạc đãi nếu có ý kiến khác biệt với lãnh đạo; công tác khen thưởng cán bộ hằng năm không chú trọng đúng mức về chuyên môn, khiến những ai có năng lực và đóng góp hiệu quả về chuyên môn nhưng không đầu tư vào những việc khác (quan hệ quần chúng, hoạt động đoàn thể, phong trào) sẽ rất dễ bị đánh giá thấp.

Trong một hệ thống như vậy thì chất xám chắc chắn không dược nuôi dưỡng, người tài phải ra ngoài làm cho cơ quan tư nhân hoặc nước ngoài nếu không muốn bị thui chột hoặc thậm chí bị... đì. Chính vì vậy, sau khi tốt nghiệp, những người đi du học bằng học bổng nhà nước hoặc do cơ quan nhà nước tài trợ cử đi đa số không muốn trở về làm cho Nhà nước. Du học sinh đi bằng con đường tự túc lại càng dễ có ý định ở lại chứ không muốn về nước. Đây là một khuynh hướng ngày càng tăng và đáng lo ngại.

Mặt khác, do không thực sự sử dụng hiệu quả tài năng nên các cơ quan nhà nước khi tuyển dụng nhân sự không chú trọng đến năng lực thực chất mà chỉ chú trọng tấm bằng và điểm số, gây ra tình trạng lạm phát bằng cấp, chạy điểm, mua thầy, tất cả chỉ để cho có một hồ sơ học bạ đẹp để nộp khi xin việc. Đây là một trong những tác nhân quan trọng khiến công tác đào tạo, giáo dục ngày càng thiếu tính thực chất, xa rời thực tiễn.
Ở chiều ngược lại, chất lượng giáo dục yếu kém sẽ tiếp tục gây lãng phí chất xám cho những thế hệ tiếp theo, khiến người học lãng phí nhiều thời gian quý báu mà không được đào tạo đúng mực để đáp ứng nhu cầu phát triển của bản thân và xã hội. Hậu quả là tình trạng người người đổ xô đi học nước ngoài hoặc ít ra là các chương trình liên kết với nước ngoài ở trong nước, để rồi nếu không may mắn thì gặp phải những trường kém chất lượng khiến tiền mất tật mang, vừa làm lãng phí chất xám bản thân, vừa gây hao hụt nguồn ngoại tệ mà đất nước đang rất cần để phát triển.

Lãng phí của cải

Có nhiều thí dụ về tình trạng này ở Việt Nam, tôi chỉ nêu hai trường hợp cụ thể mà tôi biết rõ nhất. Thí dụ thứ nhất là từ những năm 2000 khi phần mềm Blackboard, một hệ thống quản lý học tập trực tuyến, mới ra đời và được bán với giá cắt cổ khiến ngay cả các trường đại học của Mỹ cũng ngần ngại không dám mua, thì một trường đại học ở TP. HCM (xin không nêu tên) bằng nguồn vốn vay cho giáo dục đại học của Ngân hàng Thế giới đã mạnh dạn mua về rồi để đó không dùng vì quá phức tạp, sau đó phải vứt bỏ. Trong khi đó, chỉ vài năm sau người ta đã có thể mua phiên bản cập nhật hơn của cùng một hệ thống ấy với mức giảm giá rất nhiều lần.

Ví dụ thứ hai cùng xảy ra trong thời kỳ trên là việc xây dựng một số thư viện to đẹp, hiện đại ở một số trường, trong đó thiết kế và lắp đặt máy lạnh đầy đủ, nhiều sách vở được mua, tất cả cũng đều bằng tiền vay từ nguồn vốn của Ngân hàng Thế giới cho giáo dục đại học. Nhưng cuối cùng khi hết tiền của dự án thì thư viện bị đóng cửa hoặc được sử dụng rất hạn chế, do... không có tiền để trả tiền điện, mà phòng thiết kế quá kín để dùng máy lạnh nên khi không mở máy lạnh sẽ bí và nóng! Người ta mua cho các thư viện này những cơ sở dữ liệu bài báo khoa học rất tốn kém (các trường đều mua chứ không chịu dùng chung), nhưng người biết tiếng Anh và đủ trình độ để đọc thì rất hiếm nên cuối cùng ...không mấy ai sử dụng.

Từ những vấn đề tồn tại phổ biến như trên, chúng ta có thể thấy rằng thay vì tiếp tục theo đuổi những mục tiêu ảo tưởng, như đưa giáo dục đại học Việt Nam lọt vào top này hay top kia, Việt Nam cần phát triển nền giáo dục đại học của mình thật vững chắc bằng cách tập trung đáp ứng các nhu cầu thiết thực nội tại của xã hội và nền kinh tế. Đó là: một nền giáo dục tử tế ở trình độ sau trung học (gồm cả dạy nghề, cao đẳng, và đại học); hạn chế bớt các chương trình sau đại học kém chất lượng; quan tâm đến chất lượng đầu ra sao cho đáp ứng thị trường lao động, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội v.v. Nếu không làm vậy thì nền giáo dục Việt Nam sẽ không thể đứng vững qua cơn khủng hoảng hiện nay, và càng không thể cất cánh.
Theo Tia Sáng

Triết lý giáo dục Mỹ khác Việt Nam thế nào?

14:25 |
"Không có có câu hỏi nào ngu ngốc", vấn đề là bạn có thể đưa ra "câu trả lời thông minh" hay không mà thôi.

"Bài của bạn sẽ hay hơn nếu.."

Thời gian học tập ở Mỹ và những lần tiếp xúc với nhiều người nước ngoài đã đem lại cho cá nhân tôi nhiều bài học bổ ích. Xin được phép chia sẻ với bạn đọc một vài trong số đó để cùng suy ngẫm và thảo luận.

Dường như thành thói quen, hay nét văn hóa ứng xử, các giáo viên ở Mỹ thường bắt đầu nhận xét về bài viết hay ý kiến phát biểu của sinh viên bằng lời khen ngợi. "Bài viết của bạn khá tốt", "thật thú vị khi đọc bài của bạn", "đọc bài của bạn cho tôi thấy đây là kết quả của một tinh thần làm việc nghiêm túc",  "tôi thấy thích thú khi đọc bài của bạn" hay "đó là một ý tưởng thú vị" là những cụm từ thường được dùng để mở đầu. Hơn một lần, tôi đã từng hân hoan khi nhìn thấy lời nhận xét "thật thú vị" hay "rất tốt" của giáo sư ở ngay dòng đầu tiên.

Dĩ nhiên, một bài nhận xét thì không bao giờ chỉ bao gồm những lời khen. Thường thì sau một vài câu khích lệ, chỉ ra những điểm ưu của bài viết, bạn sẽ nhận được những góp ý của thầy về điều cần sửa đổi. Cấu trúc này thì không có gì là lạ lẫm quá, ở nhiều nước cũng đã bắt đầu theo mô típ này. Tuy nhiên, cách mà những lời góp ý được đưa ra mới là điều đáng lưu tâm. Thường thì những lời khuyên được đưa tới bạn một cách ẩn qua lối diễn ngôn khá mềm mại: "nếu tôi là bạn, tôi sẽ lưu tâm đến một số vấn đề..."; "bài viết/ý kiến của bạn sẽ hay hơn nếu một số vấn đề sau được bổ xung, làm rõ, điều chỉnh"; "tôi nghĩ bài viết này sẽ thuyết phục bạn đọc hơn khi một số vấn đề sau được làm rõ" hay "có lẽ bạn sẽ muốn xem xét, phát triển thêm bài viết/ý tưởng của mình"...

Một điều hầu như không bao giờ thấy là việc giáo viên dùng bút đỏ gạch toàn bộ hay một đoạn trong bài viết của bạn, dù đó là phần chưa đúng hay hoàn toàn sai theo đánh giá của họ. Thường thì giáo viên trực tiếp ghi nhận xét của mình ngay bên lề, ở những phần mà họ muốn góp ý. Quy định dãn dòng và căn lề trong bài viết ở Mỹ đủ rộng (double) và bài viết luôn chỉ in một mặt để người chấm bài có đủ chỗ ghi nhận xét. Với mỗi lỗi, sẽ có từng góp ý cụ thể để bạn dễ chỉnh sửa. Ở phần cuối bài viết, có thể sau rất nhiều những góp ý, phản biện cụ thể, thường thì bạn sẽ nhận được những kết luận cuối cùng về chất lượng của bài viết. Cách khép lại luôn giống như cách mở đầu, bạn sẽ một lần nữa nhận được đôi lời khích lệ, khen ngợi.

Hiếm khi những bạn nhận được những lời nhận xét theo dạng: "bạn không đúng", "bạn đã sai", "thật kém chất lượng", "phần này phải sửa" hay "tôi không đồng ý với bạn".

Tuy nhiên, dẫu rằng lời góp ý được đưa ra mềm mại, điều đó không có nghĩa là bạn không cần phải tiếp thu những ý kiến đó. Khi bạn muốn bảo lưu quan điểm của mình, bạn sẽ cần chứng minh nó một cách thuyết phục hơn hoặc chỉnh sửa, phát triển theo hướng được gợi ý nếu muốn nhận điểm cao.

Các học sinh trung học Mỹ mừng ngày tốt nghiệp.

Thói quen nói "tôi không biết" hay "tôi xin lỗi"

Không có gì là bất ngờ khi trong tiết học hay cuộc trò chuyện về chuyên môn, giáo sư của bạn hơn một lần nói "tôi không biết", "tôi không rõ" trước câu hỏi hay vấn đề tranh luận nào đó. Tôi từng được may mắn đến thăm đại học Harvard, được trò chuyện với một giáo sư nổi tiếng nghiên cứu về Việt Nam, người mà số công trình xuất bản nếu liệt kê phải hết hàng chục trang giấy A4. Hơn một lần ông trả lời câu hỏi của tôi bằng việc mình không biết hay không có thông tin gì về điều tôi muốn hỏi ông.

Tuy nhiên, bạn hiếm khi phải thất vọng với câu trả lời như vậy bởi ngay sau sự thừa nhận rõ ràng, sòng phẳng ấy, bạn sẽ nhận được lời khuyên nên tìm câu trả lời ấy ở đâu, với ai hay nên tiếp cận vấn đề quan tâm như thế nào, làm thế nào để tìm được thông tin giải đáp. Nếu đó là câu hỏi được đưa ra trong một buổi học, nó sẽ được đặt ra để tất cả các sinh viên khác cùng hỗ trợ, chia sẻ thông tin. Sẽ không có gì là lạ nếu vài ngày sau bạn nhận được email từ giáo sư của mình những thông tin mà họ mới thu thập được, hoặc là thư giới thiệu bạn tới một giáo sư khác, người có thể giải đáp thắc mắc cho bạn.

Việc nói lời xin lỗi vốn phổ biến trong diễn ngôn của nhiều nước phương Tây và vì thế không có gì là lạ khi bạn được giáo sư xin lỗi vì một sự cố nào đó. Đó có thể là việc đến lớp muộn (hiếm khi xảy ra) hay không kịp trả bài theo hẹn (đôi khi, do các giáo sư thường khá bận). Lời xin lỗi cũng được đưa ra khi họ cảm thấy không giúp bạn giải đáp thỏa đáng một vấn đề học thuật nào hay thậm chí ngay cả khi họ không thể phá vỡ quy định của nhà trường, đạo đức nghề nghiệp để nâng điểm hay cho bạn một đặc ân nào đó.

Cũng không ít trường hợp bạn nhận được lời xin lỗi từ giáo sư của mình khi họ nhận ra kiến thức mà họ chia sẻ với bạn có gì đó không chính xác, chưa đầy đủ hay không cập nhật. Họ cũng cảm thấy có lỗi khi thành tích học tập của bạn không được như ý, hay bài giảng của họ không được hiểu thấu đáo, yêu thích dù rằng căn nguyên có thể không xuất phát từ phía họ.

Nữ sinh Việt Nam trong ngày tốt nghiệp trung học. Ảnh: Zing

Tâm thế định vị hành vi

Ở Mỹ, mục đích tối quan trọng của giáo dục trước tiên là học để biết mình có thể làm gì, nên làm gì. Có lẽ vì thế, vai trò của người thầy là khơi dậy những năng lực tiềm ẩn từ người học, giúp họ phát huy chúng và sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất chứ không phải là cầm tay chỉ việc hay định khung học trò của mình trong một hệ giá trị khô cứng. Quan niệm phổ biến trong trường học là "không có câu hỏi nào ngu ngốc", vấn đề là bạn có thể đưa ra "câu trả lời thông minh" hay không mà thôi.

Hầu như không có khoảng cách thứ bậc giữa thầy và trò bởi sự bình đẳng trong tranh luận khoa học luôn được đề cao. Người dạy đánh giá sinh viên qua điểm số và ngược lại sinh viên cũng được quyền đánh giá năng lực, phương pháp hay nhiệt huyết giảng dạy của thầy mình. Điểm số có thể ảnh hưởng đến thành tích học tập của sinh viên và ngược lại, nhận xét của họ cũng có thể tác động đến cơ hội thăng tiến, tăng lương của một giáo viên. Chính vì thế, không có một chân lí cứng nhắc, bất biến nào. Quá trình tương tác trên giảng đường là đa chiều: giữa người dạy với sinh viên và ngược lại; giữa sinh viên với sinh viên.

Người dạy thường không được ban đặc quyền đặc lợi nào trong mối quan hệ với sinh viên. Bản thân họ cũng không tự đặt mình ở trên sinh viên, cho mình là chân lí. Họ hầu như không có ý định áp đặt học trò phải theo ý kiến của mình và việc bạn bảo lưu quan điểm của bạn trái ngược với quan điểm của thầy không nhất thiết dẫn đến việc nhận điểm kém. Điều quan trọng là bạn phải chứng minh được tính logic cho mỗi quan điểm của mình. Phải chăng từ bệ phóng ấy mà cách diễn ngôn không có chỗ cho những cụm từ mang tính mệnh lệnh như "phải", "cần", "buộc" mà được thay thế bởi những định đề mang tính gợi mở như đã nói ở trên.

Việc thẳng thắn thừa nhận mình không biết hay không rõ đối với vấn đề được hỏi là bài học cụ thể nhất về tính trung thực, dũng cảm trong khoa học. Nó là thông điệp khuyến khích học trò không chỉ nói những điều mình biết mà cả thừa nhận những điều mình không biết. Không phải ngẫu nhiên mà đạo văn được coi là lỗi nghiêm trọng, có thể chôn vùi nghiệp đèn sách của bất cứ ai, không có ngoại lệ hay bất cứ biện hộ nào được chấp nhận.
 
Theo VNN

Hoạt động tình nguyện: Cần thực chất

14:22 |
Mỗi năm, hàng ngàn bạn trẻ đã hòa vào các hoạt động tình nguyện tại khắp miền quê với mong muốn góp phần sức nhỏ bé vào phát triển xã hội. Nhiều hoạt động được cộng đồng đánh giá cao với nhiều việc làm thiết thực. Tuy nhiên vẫn còn những hạt sạn nhỏ mà thiết nghĩ khi tham gia tình nguyện các bạn trẻ phải hết sức lưu ý đừng để xảy ra.


Các đoàn viên, thanh niên phải rất khó khăn mới đưa được bò lên sân khấu để chụp lại khoảnh khắc trao tặng cho người nghèo. Ảnh: Trường Phong


Đừng để ấn tượng xấu

Tháng 12/2013, phóng viên Tiền Phong đi công tác ở huyện Mường Nhé (Điện Biên) cùng Bí thư Tỉnh Đoàn Điện Biên Vừ A Bằng. Lúc ở Đồn biên phòng A Pa Chải, anh Bằng nhận được cuộc gọi từ Trung tâm Nguồn lực tình nguyện (Trung ương Đoàn) thông báo có một đoàn tình nguyện lên tặng quần áo, chăn màn, một số hàng hóa cho bà con vùng cao đón Tết.

Đại diện Trung tâm này cũng thông báo, nhóm tình nguyện chỉ mong Tỉnh Đoàn dẫn đường và kết nối với địa phương, anh Bằng vui vẻ đồng ý. Tuy nhiên, ngày hôm sau, một đại diện nhóm tình nguyện này liên hệ trực tiếp với anh Vừ A Bằng mong muốn Tỉnh Đoàn hỗ trợ về ăn, nghỉ tại thành phố cho cả đoàn.

Nhóm này cũng thông báo ngoài các tình nguyện viên trẻ, trong đoàn còn có thêm 3 cựu TNXP tuổi đã cao đi cùng. Anh Vừ A Bằng chỉ đồng ý lo chỗ ăn, nghỉ cho lái xe và 3 cựu TNXP, còn những thành viên khác trong đoàn phải tự lo liệu.
“Một số tổ chức, cá nhân giờ rất thích đi tình nguyện, nhưng phải đến nơi có phong cảnh đẹp và nhiều đặc sản. Cũng vì thế nên có những em bé qua một mùa đông mang chăn ra cho trâu đắp không hết”.

Anh Nông Việt Yên, Bí thư Tỉnh Đoàn Yên Bái

Mọi chuyện tưởng chừng sẽ diễn ra êm đẹp thì ngày hôm sau nữa, đang di chuyển trên đường, anh Bằng nhận được thông tin 2 trong 3 cựu TNXP đi cùng đoàn vừa lên đến thành phố bị ngất phải đưa vào bệnh viện điều trị.

Anh Bằng phải gọi điện nhờ người hỗ trợ. Chưa hết, đại diện nhóm tình nguyện này còn nhờ anh Bằng liên hệ với chính quyền địa phương nơi đoàn đến hoạt động tình nguyện lo cho việc ăn, ở của đoàn.

Liên hệ với Bí thư Huyện ủy, anh Bằng nhận được câu trả lời rất thật: Để lo ăn, nghỉ cho đoàn, riêng chi phí đã tốn hàng chục triệu đồng, chúng tôi lấy đâu ra. Thà để số tiền đó chúng tôi chuyển cho bà con.

Không hiểu vì lý do gì, hôm sau chỉ có một vài tình nguyện viên cùng một cựu TNXP đi theo xe vận chuyển hàng hóa vào nơi làm tình nguyện, còn các thành viên khác của nhóm tình nguyện ở lại thành phố Điện Biên Phủ.

“Chúng tôi rất trân trọng những hoạt động tình nguyện vì đồng bào vùng cao, nhưng phải có kế hoạch, liên lạc từ trước một cách cụ thể. Nếu lo liệu được kinh phí di chuyển, ăn nghỉ hãy đi tình nguyện, còn nếu mang hàng hóa trị giá khoảng chục triệu đồng lên tặng bà con mà chúng tôi phải chi ra vài chục triệu để đón tiếp thì chúng tôi không cần”, anh Bằng nói. Cũng theo anh Bằng, một số đội, nhóm đi tình nguyện như đi du lịch, sau đó, về báo cáo thành tích với cấp trên.

Cần thực chất

Đầu tháng 1/2014, phóng viên Tiền Phong tham gia cùng một đoàn tình nguyện đi tặng quà gồm áo, khăn len, đồ dùng học tập, học bổng… cho trẻ em vùng cao tại Cao Bằng. Lúc đến địa điểm hoạt động tình nguyện, nhiều người ngỡ ngàng vì điểm trường chỉ cách thành phố Cao Bằng chưa đến 20km.



Những học sinh ăn mặc đầy đủ được tặng thêm những chiếc áo ấm, khăn ấm, học bổng. Trong khi những món quà đó lại rất có ý nghĩa và tác dụng với những học sinh nghèo khó ở vùng sâu, vùng xa


Trường được xây khang trang, học sinh với quần áo sạch sẽ, giày dép chỉnh tề ngồi ngay ngắn. Trong số hơn trăm học sinh của trường chưa đến chục em thực sự có hoàn cảnh khó khăn với những bộ quần áo, giày dép rách rưới.

“Nếu lo liệu được kinh phí di chuyển, ăn nghỉ, hãy đi tình nguyện, còn nếu mang được hàng hóa trị giá khoảng chục triệu đồng lên tặng bà con mà chúng tôi phải chi ra vài chục triệu để đón tiếp thì chúng tôi không cần dù với chúng tôi chỉ cho bà con được một vài nghìn đồng cũng rất quý. Để tiết kiệm, hãy chuyển lên để chúng tôi trao cho đồng bào”. 
Anh Vừ A Bằng, Bí thư Tỉnh Đoàn Điện Biên
Những món quà vẫn được trao đầy đủ cho các học sinh, dù với nhiều em, nó không thực sự có nhiều ý nghĩa và cần thiết như các bạn cùng trang lứa ở những nơi còn nghèo khó, vùng sâu, vùng xa…

Trước đó, trong một chuyến tình nguyện tại Lũng Táo, một xã khó khăn của huyện Đồng Văn (Hà Giang), phóng viên thấy cũng còn nặng hình thức. Một trong những hoạt động điểm nhấn là việc tặng bò cho các hộ gia đình nghèo trong xã.

Trong lễ tặng bò, các thành viên trong đoàn tình nguyện nhờ vả bằng được một vài người dân đứng giữ bò cho quấn băng dính quảng cáo tên nhà tài trợ vào bụng bò. Chưa hết, thay vì việc dẫn người dân ra gần con bò và đưa cho họ dây thừng, thì gần chục người hì hục lôi, kéo, đẩy con bò lên sân khấu trao cho các hộ nghèo để phục vụ việc… chụp ảnh.
Theo Tiền Phong
Được tạo bởi Blogger.

Our Program

Poll

Become a Fan

 photo hj_zpsf2056086.gif